Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

TRÁN

Điều kiện bình thường của trán: Phải xem xét tỷ lệ bình thường của trán với khuôn mặt. 
1. Độ cao của trán
     M            N                     Cao bình thường:         AB = BC/2      
                                                     
A            Trán thấp :      AB < BC/2
                                             
B            Trán cao:       AB > BC/2
                                           

C


Tính độ cao thấp của trán chắc chắn phải theo tỷ lệ chính xác như trên, không được theo cảm tính. Có khi thoạt nhìn tưởng cao nhưng cộng vào chia tỷ lệ chưa chắc đã cao.

2. Độ rộng của trán
MN = BC là rộng bình thường
Nếu MN < BC : trán hẹp
MN >BC : trán rộng
Biên độ của trán: tính từ chân tóc (ở giữa hoặc 2 bên). Phải vén tóc lên để xem, chỗ nào có tóc thì không gọi là trán. A là điểm chân tóc thấp nhất của trán.
Khi trán bình thường thì tư duy của người ta hoàn toàn có thể chuyển tải một cách rất bình thường.

CÁC LOẠI TRÁN
1. Trán rộng: (MN >BC) 

Trán có độ rộng quá độ rộng trung bình gọi là trán rộng.
Đặc trưng của trán rộng là trí nhớ dai và khả năng nhận biết các sự kiện cụ thể rất mạnh. Cái gì va đập vào mắt họ là họ nhận biết được ngay và nhớ ngay. Nhưng sức tưởng tượng của loại trán này là hạn chế (vì quá bị lệ thuộc, quá ấn tượng vào việc cụ thể): sự sáng tạo của họ chỉ dựa trên những dữ kiện mà người ta đã gặp và sáng tạo của họ là sự mô phỏng cái họ đã biết, cái người ta nắm được biết chắc được thì lúc ấy người ta làm rất hoàn hảo nhưng những cái mà người ta không biết thì không có sức chế tạo (sáng tạo) vì không có óc tưởng tượng.
Người trán rộng tiếp thu được nhiều thông tin, biết nhiều hiểu rộng nhưng không sâu, đa tài đa nghệ nhưng để trở thành chuyên gia thì khó.
Nếu phần nửa dưới trán (có xương mi cốt) mà lại bằng phẳng, chiếm diện tích nhiều thì người đó có thể tiềm mở óc tưởng tượng và có sự nhạy cảm tốt, linh cảm tốt.
Nếu phần trên trán chiếm diện tích nhiều hơn phần dưới thì khả năng tư duy thiếu thực tế: Ý kiến hay dự án của họ hoàn toàn khó khả thi vì sức tưởng tượng cao quá thành ra thiếu thực tế.

2. Trán cao: AB >(BC/2) 

Nếu trán cao mà bề ngang xấp xỉ mức trung bình thì người đó có trí tuệ tiềm nở, có sức sáng tạo và sức tưởng tượng tốt. Nếu bề ngang có mi cốt (nửa trán dưới) hẹp hơn nửa phần trên ( trán trên vẫn nở nhưng hóp vào dưới) thì là người có trí tưởng tượng quá cao xa rời thực tế, không tưởng.
Nếu trán vừa cao vừa rộng + bề ngang tiềm nở là người có trí tuệ thâm viễn, hoàn hảo, sâu sắc có thể học sâu hiểu rộng, khả năng sáng tạo cũng như khả năng mô phỏng hoàn hảo, sức tưởng tượng dồi dào, có khả năng thích ứng với hoàn cảnh và xử lý các hiện tượng tốt: Là người khá nhìn xa trông rộng đồng thời cũng rất cụ thể,

3. Trán vuông: 

là trán khi vén chân tóc thấy trán tạo thành hình vuông (không phải vuông chằn chặn mà là hơi hình thang thì chính xác hơn).
Nhìn các sự việc cụ thể tốt, tính ưa thực tiễn, khá thực tế: hợp với các ngành kinh tế hoặc các công việc không đòi hỏi sự tưởng tượng, phù hợp với công việc tính toán, hoàn toàn theo kế hoạch nên những người này thường thường hay làm kinh tế, làm những việc thực tế.
Nếu trán vuông mà thấp nhỏ là người tính tình thực dụng, thực tế đến mức thực dụng, nhìn ngay thấy những cái cụ thể trước mắt, hoàn toàn họ không cần những cái cao xa, không bao giờ làm những gì cao xa.

4. Trán có góc tròn: 

Là trán khi vén tóc lên thấy hình chữ M:
Sức tưởng tượng cao, có khả năng tư duy trừu tượng, nhạy cảm với cái hay cái đẹp, nhất là cái đẹp (thường thích ăn ngon mặc đẹp): Không hợp với những nghề thực tế, rất ngại những nghề thực tế, thường là thầy tướng, thầy bói, cha cố, nghệ sĩ và những người làm nghề thẩm mỹ vì người ta có sức tưởng tượng tốt, có khả năng nhạy cảm với cái đẹp, có khả năng phát triển sự tưởng tượng đó nhưng có
thành công hay không, thành đạt cao hay thấp còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác và các bộ vị khác ví dụ như mắt phải sắc như dao mới được, khi đó chắc chắn nổi tiếng không cần bàn cãi (như các tài tử điện ảnh Trung quốc Hồng kông).
Trán chữ M mà thấp thì khả năng tư duy trừu tượng có nhưng không nhiều, sự cảm nhận bị hạn chế, rất khó diễn đạt mặc dù có thể cảm nhận được nhưng không có khả năng thực hiện (diễn đạt) được các cảm nhận đó: Chỉ có thể làm dịch vụ cho cái hay cái đẹp chứ không thể làm nghề thể hiện cái hay cái đẹp đó.

5. Trán gồ: 

Là trán khi nhìn ngang thấy phần giữa hơi nhô lên, hơi cao hơn so với phần trên và phần dưới. Khác với trán dô là cả trán đưa ra khỏi mặt. Có 3 loại trán gồ:
5.1. Phần giữa gồ: chia trán làm 3 phần thì phần giữa (1/3 trán) gồ nhô ra đằng trước.
Người có trán gồ giữa thường hay chìm đắm vào sự suy tưởng (dạng triết gia), xa rời thực tế, không bao giờ vạch được một kế hoạch nào khả thi mặc dù nói thì rất hay toàn nói những cái cao xa trên mây trên gió, không có cơ sở khoa học. Nếu cộng thêm mắt dài dại vô thần thì gần như là người bị bệnh hoang tưởng.

5.2. Gồ ở phần dưới (phần trán dưới giáp mi cốt gồ), 2 phần trên phẳng.

Nếu người trán cao rộng trong khi phần dưới gồ thì là người chuẩn mực về tư duy nhưng tính tình khoáng đạt và ngang ngạnh, không thích khuôn sáo và không thích các chi tiết vụn vặt.
Trán phần dưới gồ cao hơn phần mi cốt là người có cá tính rất mạnh, thích những trò lập dị, thích những trò mới lạ độc đáo, người ta làm xuôi thì ông làm ngược.
Nếu trán cao rộng nhưng vát về đằng sau và dưới gồ là người lì lợm bạo gan ưa làm công việc mạo hiểm, là người không thích sống theo luật, có thể mạo hiểm phá luật. Luật lệ đối với conngười này không cần thiết: Hay phạm pháp, gặp vận xấu thêm mắt xấu thì dễ bị tù tội.
5.3. Trán gồ trên: Giống như đầu trâu (xem lại phần trên - Đầu trâu). 
6.Trán tròn: 

Khi vén tóc lên tạo thành hình vòng cung.
Là người trí tuệ khá hoàn hảo, cân bằng giữa sự lãng mạn và thực tế, cân bằng
được cuộc sống.
Phụ nữ mà trán tròn là người trật tự ngăn nắp, sống rất lý tưởng: họ phải chọn
được 1 người chồng thật ưng ý, nếu không thì thôi hoặc lấy nhau rồi sẽ chia tay trường hợp người chồng không thể hiện được cuộc sống theo lối lý tưởng của người ta.
Đàn ông trán tròn là người sống vị kỷ, thích tư lợi nên hay bất hòa với anh em thân tộc.
Nhưng nếu người trán tròn đi xa khỏi quê hương, xa gia đình hoặc vào chỗ đô thị đông đúc náo loạn thì rất dễ thành đạt, lúc đó tài năng được thể hiện, thi thố.
Người trán tròn thường là người lý tưởng hóa, cái gì cũng muốn đạt đến sự hoàn hảo (Phụ nữ mà cứ muốn đạt đến sự hoàn hảo là dễ sinh chuyện).

7.Trán lẹm: 

Là trán có bề ngang bị thót vào (loại trán hình thang, chiều cao bị kéo xuống) thường thấy ở trẻ em bị bệnh Đao, suy dinh dưỡng hay có tật khi đẻ ra: trí tuệ kém phát triển, trí tuệ hạn chế đến mức tối thiểu: khó dạy, loại người này sống theo lối bản năng, hoang dã, không tiếp thu được. Y học gọi là thiểu năng trí tuệ,
Tướng học gọi là thiếu trí tuệ tiên thiên (cha sinh mẹ đẻ ra đã thiếu như vậy). Trán lẹm là phá cách nhất trong các loại trán.

8.Trán gồ ghề: Là trán lồi lõm như hình sin:
Nhìn thẳng trước mặt thì trán vẫn cân xứng, nhìn nghiêng thì thấy vệt lồi lõm (lồi bao nhiêu, lõm bấy nhiêu).
Là con người có trí tuệ phát triển và biểu hiện một sự nỗ lực về tư duy.
Nếu người trán gồ ghề phối hợp với trán cao và rộng thì là người cực kỳ thông minh nhưng kín đáo và sâu lắng, nhớ lâu, tư tưởng trật tự (có lớp lang, không phải lung tung), suy luận lôgic, sức tập trung tư tưởng cao nên phán đoán chuẩn xác hơn người thường, có dự cảm tốt.
Đặc biệt, có tính quan sát rất cao, có lối tư duy trừu tượng, đặc biệt biết nhìn cái cũ thì lien tưởng đến cái mới “ôn cổ tri tân”, nhìn hiện tượng bên ngoài lột tả được bản chất bên trong. Tất cả các công việc người ta hệ thống hóa được và giải thích được bản chất bên trong của các sự việc. Là trán của những nhà triết học, những nhà tướng thuật nổi tiếng.


CÁC LOẠI VĂN CỦA TRÁN
Thành: văn trán xuất hiện phải rõ ràng, chạy ngang và song song (nếu như có nhiều đoạn văn), đuôi văn phải hướng lên trên. Nếu người có văn tốt thì thường là cuộc đời hanh thông, được sự ủng hộ của kẻ trên người dưới cũng như của gia đình. Tất nhiên văn không phải là điều kiện quyết định số phận nhưng cũng góp phần chế định số phận.

Văn trán chia làm 3 loại văn:
Văn trên cùng là Thiên văn: chủ tôn trưởng, người trên.
Văn ở giữa là Nhân văn: chủ bản thân.
Văn dưới cùng là Địa văn: chủ thuộc hạ, người dưới mình.
Thiên văn: đẹp là thời thơ ấu được bố mẹ người trên yêu quý giúp đỡ, hoặc được nhà gia thế sang trọng nhận làm con nuôi.
Nhân văn: Là người thành công bằng nỗ lực bản thân. Cuộc sống phải tự mình phấn đấu, tự mình khai thác tất cả những cơ hội may mắn.
Địa văn: Được hưởng điều kiện thuận lợi từ bạn bè, được kẻ dưới hỗ trợ giúp đỡ.
Nếu các văn không rõ ràng hoặc đứt đoạn (có chấm phá) thì là người hung hãn, hay gây gổ, hay cáu, đang nói tử tế đột ngột dở mặt cáu ngay. Nếu Địa văn xấu thì người này khó hợp tác chân thành, kể cả nó cũng như mình, mình như nó đều khó hợp tác chân thành với mọi người.
Các dạng văn (các hình dáng văn):

Nếu 3 văn Thiên Địa Nhân đủ nhưng Thiên văn không song song với Nhân văn và Địa văn thì không hy vọng gì sự hỗ trợ của người trên hoặc bậc trưởng.
Đủ 3 văn nhưng Địa văn không song hành thì không những kẻ dưới không giúp đỡ cho mình mà còn hay bị phiền não, rắc rối và cả thiệt hại với kẻ dưới hoặc với bạn bè thân thích.
Văn chữ Vương (王): 3 văn song song hợp cách, có một văn từ ấn đường chạy lên ở giữa cắm xuyên suốt 3 văn kia: là người có ý chí mạnh, sức tập trung tư tưởng cao, trí tuệ thông minh nhưng tính khoát đạt, không câu chấp, câu nệ; ý chí cương cường ngang ngạnh, những gì họ đã nghĩ thì khó mà thay đổi được; về gia đạo thì vợ chồng hay bất hòa dẫn đến ly tán.
Văn hình chữ thập(十): (1 văn ngang bất kể là Thiên hay Địa hay Nhân và 1 văn dọc): là người có sức tập trung tư tưởng cao, thông minh nhưng vợ chồng hay ly tán.
Nếu chỉ có 1 đường Nhân văn ở giữa thì Huynh đệ bất hòa, là người hay gây sự với vợ (chồng), nếu gặp người vợ cũng có văn này thì cuộc sống vợ chồng thành địa ngục sẽ tra tấn nhau đến cuối đời, nhưng không bỏ nhau được.
Người chỉ có Thiên văn (văn trên cùng) mà không có đường Nhân văn thì là người hay bị người khác chi phối ( người không có bản lĩnh, không có cá tính).
Văn như hạc bay: Trông tương tự như đàn chim hạc bay. Vếch lên trái hay lên phải hoặc cả 2 bên: là người tính tình lãnh đạm hay nghĩ ngợi nên hay bị suy nhược thần kinh. Đàn ông có văn này thì thường chuyện chăn gối yếu, không có nhu cầu lấy vợ. (Lãnh đạm (冷淡): lạnh lùng lạt lẽo, không sốt sắng thân mật.)



















































Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét